Tình trạng dở khóc dở cười của Hà Nội


Tình trạng dở khóc dở cười  của Hà Nội magnify

Tình trạng dở khóc dở cười

của Hà Nội

David Koh. (The Straits Times - 23/01/08)
Khánh Đăng lược dịch

Qua hàng thế kỷ, Trung Quốc và Việt Nam luôn duy trì một mối quan hệ đầy sóng gió. Những sự kiện vừa xảy ra cho thấy mối quan hệ này đang bắt đầu đi vào một thời kỳ khó khăn khác.
Cuối năm ngoái, Trung Quốc đã quyết định thiết lập một đơn vị hành chánh trên quần đảo Trường Sa đang tranh chấp, biến nơi này thành một quận lỵ mới của tỉnh Hải Nam. Việc xâm lấn chủ quyền này đã khích động lên một phản ứng mạnh mẽ tại Hà Nội và có vẻ như là xác nhận mối nghi ngờ đã khá lâu của phía Việt Nam về “vươn lên trong hoà bình” của Trung Quốc.
Vào ngày 9 và 16 tháng 12 năm ngoái, một nhóm gồm nhiều người Việt Nam đã tụ tập tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và Lãnh sự quán ở TP. Sài Gòn để phản đối hành động của Trung Quốc. Theo những người biểu tình, phần lớn là những người trẻ tuổi như sinh viên, văn nghệ sĩ và một vài nhà bất đồng chính kiến, thì cuộc xuống đường là để phản ứng lại những hành động hung hăng vừa qua của Trung Quốc, bao gồm việc giết hại các ngư dân Việt Nam hồi đầu năm ngoái. Nhiều cuộc biểu tình đang được dự định tiến hành thêm.
Sự tự phát của các cuộc biểu tình đã làm ngạc nhiên nhiều nhà quan sát vì theo sự hiểu biết thông thường thì giới trẻ Việt Nam rất thụ động về chính trị. Họ không biết gì nhiều về chiến tranh, vì được sinh ra sau năm 1975. Và mặc dù lịch sử lâu đời của đất nước trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, trong đó có giai cấp phong kiến Trung Hoa, được trình bày trong sách giáo khoa, trong phạm vi nghệ thuật, và nằm trong trí nhớ của mọi người, thì không có gì ở đây có thể so sánh với lối sống thật sự trong những thời kỳ đó.
Dù thế, điều đó có vẻ như là Trung Quốc đã vô tình đánh thức dậy một đối thủ lợi hại. Những cuộc chiến chống lại thực dân Pháp, chế độ Sài Gòn do Hoa Kỳ yểm trợ, và cuối cùng là chính Hoa Kỳ, đã thắng lợi vì giới trẻ Việt Nam sẵn sàng đi chiến đấu mặc dù sự thật là những kỹ thuật quân sự cung cấp cho họ kém xa hẳn của kẻ thù của đất nước.
Một tinh thần yêu nước tương tự có thể được nhận thấy ở ngày hôm nay khi giới trẻ ăn mừng chiến thắng của đội tuyển túc cầu quốc gia. Muốn tìm bằng chứng thì người ta chỉ cần tìm hiểu trên các trang blogs trên mạng của giới trẻ Viêt Nam.
Ngay cả một điều đáng chú ý hơn là hành động của Trung Quốc đã gây ra sự phẫn nộ trong hàng ngũ người Việt hải ngoại, mà phần lớn không có cảm tình gì với chế độ XHCN Hà Nội. Từ Texas đến California, từ Anh Quốc đến Úc Đại Lợi, những người Việt hải ngoại đã bày tỏ sự ủng hộ của họ cho các cuộc xuống đường biểu tình chống Trung Quốc bằng cách tổ chức các cuộc biểu tình của riêng họ.
Sự thật là các cuộc biểu tình tại Hà Nội được tổ chức vào hai ngày cuối tuần của hai tuần lễ liên tiếp, và sự chuẩn bị đã được loan truyền rộng rãi trên mạng Internet khá lâu trước khi xảy ra, cho thấy có vẻ như là đã được nhà nước chính thức chấp thuận.
Nhưng trong thực tế thì các cuộc biểu tình đã đưa nhà nước vào một vị trí vô cùng bối rối.
Trong quá khứ, chế độ Hà Nội đã bị người Việt hải ngoại, cũng như một số các nhà bất đồng chính kiến trong nước, cáo buộc là có thái độ hèn yếu đối với Bắc Kinh khi dâng hiến đất đai cho Trung Quốc trong một hiệp ước biên giới có nhiều nghi vấn vào cuối năm 1999. Nhớ lại những sự kiện đã xảy ra tại Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và cuộc biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989, nhà nước lo ngại rằng những cuộc biểu tình này sẽ có thể bùng lên thành một phong trào nhắm vào việc lật đổ chế độ.
Những cuộc biểu tình cũng đã làm giảm thiểu đi tư thế của Hà Nội trong việc thương lượng với Bắc Kinh. Thực tế là khi thương thảo cần phải có sự đồng thuận, và trong vấn đề Trường Sa, thì sức mạnh của hải quân Trung Quốc vượt trội hẳn của phía Việt Nam. Những cuộc biểu tình cũng có thể làm mạnh hơn phe chống Trung Quốc trong nhà nước Việt Nam, làm hỏng kế hoạch cân bằng mà Hà Nội bây giờ đang theo đuổi trong các quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Chế độ Hà Nội đang ở trong một tình trạng dở khóc dở cười. Nếu cấm biểu tình thì nhà nước bị coi như là thiếu tinh thần yêu nước, mà cho phép thì giống như là mở rộng địa bàn cho bàn thảo công khai, để các nhà bất đồng chính kiến có cơ hội gia tăng ảnh hưởng của họ. Thật vậy, nhà bất đồng chính kiến Phạm Hồng Sơn đã nhân cơ hội này cùng tham gia biểu tình, cũng như một số các nhà đối kháng khác. Theo một nguồn tin cho biết thì các sinh viên đã đề nghị với anh Sơn và thân hữu nên đứng riêng ra để lực lượng an ninh tại Hà Nội không có cảm tưởng là hai nhóm cùng đồng tình thoả thuận xuống đường chung với nhau.
Để có thể duy trì chính sách cân bằng hiện thời, cùng lúc để tránh bị coi như thiếu tinh thần yêu nước, thì chế độ Hà Nội phải làm hai việc sau đây.
Trước nhất, họ phải công khai hoá thêm thông tin về các hiệp ước biên giới. Trong quá khứ, nhà nước đã cố giữ bí mật về các chính sách ngoại giao. Kết quả là giới trẻ Việt Nam than phiền rằng họ hầu như không biết gì về việc tranh chấp các quần đảo hoặc đất đai biên giới bị cho là đã mất vào tay Trung Quốc qua hiệp ước năm 1999. Nhà nước thì luôn cho rằng là không bị mất đất. Nhưng bởi vì đề tài này không bao giờ được công khai giải thích hay bàn thảo, cho nên mọi người sẵn sàng tin vào hầu như bất cứ nguồn thông tin nào sẵn có trên mạng Internet.
Bắc Kinh cũng nêu ra rằng vào tháng 9/1958, nhà nước Việt Nam đã gởi cho Trung Quốc một công hàm chính thức xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhà nước Viêt Nam chưa bao giờ chính thức phản bác lại điều này. Nhưng sau khi đã về hưu, thì thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có lần phát biểu rằng bản công hàm 1958 phải được nhìn trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh. Cái ẩn ý là nhà nước Việt Nam lúc đó đã không có nhiều sự lựa chọn, và cái công hàm đó được thực hiện để bảo đảm cho các quần đảo không rơi vào tay giới tư bản. Như trên căn bản của tình anh em XHCN, điều đã được mong đợi là khi hòa bình trở lại thì các quần đảo sẽ được trao trả lại cho Việt Nam.
Điều thứ nhì mà Hà Nội cần làm là phản đối mạnh mẽ hơn trên mặt ngoại giao, để phản ứng lại hành động của Trung Quốc và để được công luận nhìn thấy là đã có những bước cứng rắn để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Hồi đầu năm ngoái, đã có một dự kiến để thành lập Bộ Hàng hải để quản lý các chính sách công cộng về việc khai thác tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền. Nhưng dự kiến này chưa được thành hình, đây là một điểm để cho thấy rằng sự chậm chạp trong việc thực hiện các chính sách công cộng có một hậu quả nghiêm trọng cho đất nước.
Quyết định của Trung Quốc để thành lập một đơn vị hành chánh trên quần đảo Trường Sa hồi cuối năm ngoái là một sự kiện quan trọng. Không những nó đã đoàn kết những người Việt quốc gia hải ngoại và nhà nước Việt Nam, nhưng nó cũng đã đánh thức lòng yêu nước trong một thế hệ trẻ hơn, mà trước đây đã bị coi như là chỉ biết có vật chất và các thần tượng của văn hóa Tây phương.
Dù sao, cũng đáng chú ý không kém, là đường lối hành động đã đưa đẩy các lãnh tụ của chế độ vào một thực tế rằng họ phải giải quyết những khác biệt và hợp tác với nhau nếu muốn đối phó với thử thách của một Trung Quốc tái trỗi dậy.
Cả thế giới có lẽ vẫn đang cố tìm hiểu xem Trung Quốc nên được coi như là một sự đe doạ hay là một cơ hội. Nhưng người Việt Nam đã có sẵn quyết định trong đầu óc của họ rồi.