Trịnh Hòa Là Ai?
. Đinh Tấn Lực
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Lê Dũng vừa thông báo Tuần dương hạm Trịnh Hòa của Trung Quốc sẽ cặp cảng Đà Nẵng từ ngày 18-11 đến ngày 22-11-2008. Cùng lúc, Ban Tuyên giáo Trung ương lại chỉ thị cho dàn truyền thông ở đây “tuyên truyền chừng mực, không ồn ào” và nên dùng tên phiên âm là Zheng He thay vì từ Hán Việt là Trịnh Hòa.
Vậy, Trịnh Hòa là ai? Có liên hệ gì tới Việt Nam? Vì sao Hà Nội lại phải sợ húy kỵ?
Phần đông du khách Việt Nam đến viếng Malacca, Mã Lai (cạnh eo biển giữa Mã Lai & Singapore) đều khá ngạc nhiên về kiến trúc của thành phố cổ này không khác gì Hội An của ta. Từ mái ngói, cổng chùa, cửa hàng, con hẽm, cho tới cả món cơm gà hấp…
Đến khi ghé vào nhà Bảo tàng Lịch sử ở khu Tháp Đồng Hồ (Clock Tower), người ta mới khám phá ra điểm chung của Malacca và Hội An: Cả hai cùng nằm trên bản đồ hải hành của Thủy sư Đô đốc TQ Trịnh Hòa cách đây đã 600 năm.
Trịnh Hòa (Zheng He / Cheng Ho), sinh năm 1371, tên thật là Mã Hòa (Ma Ho), thuộc dòng dõi một gia đình chiến tướng Mông Cổ từng viễn chinh rồi định cư ở Makkah, Ả Rập Saudi, và theo đạo Hồi. Trong triều nhà Minh, Trịnh Hòa được biết đến dưới tên gọi là Mã tam bảo Thái giám, có tài thủy chiến, thông thạo ngôn ngữ Ả Rập, am hiểu cả thiên văn, địa lý. Đến năm 1404, Thái giám Mã Hòa được hoàng đế Vĩnh Lạc (tức Minh Thành Tổ Chu Đệ, con thứ tư của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) sắc phong cho đổi tên hoàng tộc thành Trịnh Hòa.
Cùng thời, một thái giám người Việt Nam tên là Nguyễn An (vốn là một kiến trúc sư, do Hồ Hán Thương con của Hồ Quý Ly cống nạp để được Bắc Triều sắc phong chức An Nam Quốc Vương) cũng từng được Minh Thành Tổ Chu Đệ giao cho trọng trách xây dựng thành Bắc Kinh (tên cũ là Yên Kinh) từ năm 1404, đến năm 1420 mới hoàn tất.
Năm 1405, Chu Đệ sai sứ sang Việt Nam đòi đất Lộc Châu. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương sai Cát địa sứ Hoàng Hối Khanh cắt đất của 59 thôn ở Cổ Lâu dâng cho nhà Minh. Đó là giai đoạn khởi đầu thời Minh thuộc của Việt Nam ta, trước khi người anh hùng áo vải đất Lam Sơn Lê Lợi dấy binh dựng cờ khởi nghĩa giành lại độc lập cho nước nhà.
Cũng bắt đầu từ năm 1405, kéo dài cho đến 1433, Trịnh Hòa đã chỉ huy các đoàn chiến thuyền và thương thuyền TQ thực hiện bảy chuyến viễn dương chu du qua 37 nước ven biển Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, tổng cộng gần 300.000 cây số, tương đương với hơn 7 vòng trái đất.
Chuyến xuất phát của hạm đội Trịnh Hòa vào năm 1405 (tức 87 năm trước chuyến thám hiểm của Christopher Columbus) bao gồm 317 chiến thuyền và thương thuyền chở tơ lụa, vàng bạc, khí cụ… với 27.870 thủy thủ, binh lính, thông ngôn, thương nhân, thầy thuốc và các nhà địa lý Tàu. Đa phần các thương thuyền này dài khoảng 100m, tương truyền rằng chiếc soái hạm dài đến 140m (tức gấp 5 lần chiếc tàu của Columbus khám phá ra Tân đại lục lúc gần cuối thế kỷ 15, và gấp đôi chiếc tàu hơi nước đầu tiên xuyên Đại Tây Dương 4 thế kỷ sau nó). Trên hải trình đi vào vịnh Thái Lan rồi xuyên eo biển Malacca để vòng qua Ấn Độ Dương, cảng đầu tiên đoàn tàu này ghé lại chính là Hội An.
Trong những chuyến sau đó, hạm đội củaTrịnh Hòa đã hướng đến vịnh Ba Tư, Biển Đỏ, ghé lại Mogadishu, Matindi, Mombassa, Zanzibar và có thể họ đã đến cả Mozambique. Đến chuyến thứ bảy, họ đến châu Phi, và có giả thuyết cho rằng họ đã khám phá ra châu Mỹ trước cả Columbus. Tuy nhiên trên đường về, vào năm 1433, Trịnh Hòa đã qua đời sau khi ghé hải cảng cuối cùng là Calicut, nam Ấn Độ. Trịnh Hòa đã được thủy táng trên biển Ấn Độ, theo nghi thức Hồi giáo, cùng với bộ phận trên người từng bị cắt và ướp giữ khi làm thái giám (để đầu thai nguyên vẹn kiếp sau, theo cách tin của người TQ).
Hạm đội Trịnh Hòa, vào đầu thế kỷ 15, chính là niềm tự hào tột đỉnh của TQ về sức mạnh thiên triều trên cả mặt biển. Trịnh Hòa đã đặt nền móng chủ nghĩa thực dân của TQ trên những vùng đất từ Đông Nam Á qua tới Ấn Độ và vịnh Ba Tư mà phải non thế kỷ sau đó, các đế quốc thực dân Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Tây Ban Nha mới đến (theo dấu đoàn thám hiểm Vasco de Gama đi vòng từ phía tây châu Phi).
Theo học giả Nguyễn Huy Đức ở Pháp trên một bài khảo cứu về các chuyến viễn dương của Trịnh Hòa, thì “Nhiệm vụ của hạm đội này là thám hiểm các đại dương và làm cho thiên hạ nể sợ ‘oai trời’ mà chấp nhận triều cống nhà Minh. Trong ngày khánh thành Cấm Cung (năm 1421), Trịnh Hòa đã đưa về Bắc Kinh các vua chúa và sứ thần từ các nước Á châu, Ả rập, Phi châu để vào chầu Hoàng đế Vĩnh Lạc. Sự việc này chứng tỏ rằng nhà Minh đã chủ trương áp đặt hệ thống triều cống lên những quốc gia mà họ đã đặt chân đến”.
Cùng thời với các chuyến hải hành của Trịnh Hòa là giai đoạn nhà Minh chiếm đóng Việt Nam (1406-1427), với các tên thái thú Trương Phụ, Mộc Thạnh, Hoàng Phúc, Lý Bân, Mã Kỳ… Trong đó, Hoàng Phúc là kẻ thi hành triệt để chủ trương của Minh triều là đồng hóa dân ta.
Sách Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim viết: “Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta phải khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa”.
Tình hình trong nước bấy giờ được mô tả là dân tình điêu linh cực khổ nhất trong các thời Bắc thuộc, vì lẽ: “những người An Nam như Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung theo hàng nhà Minh, khéo đường xu nịnh, được làm quan to, lại càng ỷ thế của giặc, làm những điều tàn bạo hung ác hơn người Tàu. Vả, trong những lúc biến loạn như thế, thì những đồ tham tàn gian ác, không có nghĩa khí, không biết liêm sĩ, lại càng đắc chí lắm, cho nên dân tình cực khổ, lòng người sầu oán”.
Xem ra, thời nay không khác là bao.
Trong cuộc tranh luận về chủ quyền lãnh thổ giữa VN và TQ, Bắc Kinh đã viện dẫn các chuyến hải hành của hạm đội Minh triều để lập luận rằng Trịnh Hòa đã khám phá ra Hoàng Sa và Trường Sa, và dùng đó để phản bác các chứng cứ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này từ nhiều thế kỷ trước đó.
Lãnh đạo Hà Nội, trong tư thế chư hầu khăn quàng đỏ của TQ, đã:
- ký công hàm 14-9-1958 công nhận chủ quyền của TQ trên quần đảo Trường Sa;
- không dám lên tiếng khi Quốc vụ viện TQ ban bố lệnh sáp nhập quản lý hành chánh huyện/thị xã Tam Sa bao gồm cả Trường Sa lẫn Hoàng Sa vào tháng 11-2007;
- khủng bố các cuộc tuần hành của thanh niên sinh viên VN phản đối vụ Tam Sa, tháng 12-2007;
- bắt nguội, đàn áp, truy bức và áp án những người biểu tình phản đối vừa nói, kể cả nhà báo tự do Điếu Cày, ngày 20-4-2008;
- ruồng bố sinh viên thanh niên VN có ý định tuần hành phản đối TQ, ngược lại, bảo kê cho “du khách TQ” độc quyền biểu tình ủng hộ cuộc rước đuốc Olympic ngang qua Sài Gòn ngày 29-4-2008;
- ngoan ngoãn chấp nhận “tuân thủ nghiêm túc nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước” và bảo đảm sự ổn định của vùng biển mà TQ gọi là biển Nam Trung Hoa, cũng như không tiến hành bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình (Nguyễn Tấn Dũng, 25-10-2008).
- rập đầu trước Ủy viên Thường vụ BCT/TQ Chu Vĩnh Khang, rằng: “trước sau như một, luôn hết sức coi trọng, chân thành mong muốn và làm hết sức mình để phát triển quan hệ hợp tác toàn diện, hữu nghị truyền thống với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt” (Nông Đức Mạnh, 29-10-2008).
Một tháng sau khi TT Nguyễn Tấn Dũng khấu kiến Bắc Kinh và Ủy viên BCT/TQ Chu Vĩnh Khang tham quan Hà Nội, chiến hạm Trịnh Hòa (chứ không phải là bất kỳ một chiến hạm nào khác) của TQ ghé cảng Đà Nẵng. Lãnh đạo tối cao của Hà Nội lại ra chỉ thị cho dàn báo chính quy tránh nói tục danh Trịnh Hòa, và ra lệnh chỉ được phép tuyên truyền chừng mực. Tại sao?
Năm 2005, TQ tổ chức linh đình một lễ kỳ niệm 600 năm chuyến hải hành đầu tiên của Trịnh Hòa. Năm 2006, TQ cho trình chiếu một bộ phim 40 tập để tôn vinh “Trịnh Hòa – Một Columbus của TQ”, với các tài tử gạo cội Đạo Quốc Cường thủ vai Chu Đệ, Lý Tiểu Lộ thủ vai Hoàng hậu… Đây là màn giáo đầu tập huấn về vị trí, vai trò và truyền thống bá quyền của TQ đối với các lân bang nói riêng và cả thế giới, nếu cần, nói chung.
Kế đến, tuần dương hạm Trịnh Hòa là một chiến hạm tối tân, hạ thủy năm 1987, từ bấy đến nay đã từng ghé Trân Châu Cảng và nhiều hải cảng quốc tế phương Tây. Gần đây, nó được điều quay về “thăm viếng” các quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Trong số đó, nhiều người cho rằng điểm ghé thăm quan trọng nhất của chiến hạm Trịnh Hòa trong vùng này là Việt Nam, nhằm chuyển tải một số “thông điệp” cần thiết:
- biểu dương cho nhân dân VN nhìn thấy sức mạnh cơ bắp về cả 3 mặt kinh tế - chính trị - quân sự của Bắc Kinh, và vị trí bá chủ biển Đông của TQ;
- biểu dương cho nhân dân VN nhìn thấy thế tranh chấp thượng phong của TQ thông qua lập luận Trịnh Hòa khám phá ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
- biểu dương cho nhân dân VN nhìn thấy thành quả TQ khống chế lãnh đạo VN thông qua các cuộc khấu kiến, gần nhất là với TT Nguyễn Tấn Dũng và TBT Nông Đức Mạnh…
*
Thông qua chiến hạm Trịnh Hòa, tinh thần “Hữu Nghị” của Bắc Kinh đồng nghĩa với “Khuất Phục”.
Đảng và nhà nước quang vinh đã cúi đầu thần phục. Chỉ thị “tuyên truyền chừng mực” và tránh kỵ húy Trịnh Hòa đã trọng thị biểu dương ý chí khuất phục cao độ đó trước thiên triều.
Còn nhân dân Việt Nam anh hùng thì sao? Ta cần làm gì để tỏ thái độ đối với sứ quán và lãnh sự quán TQ tại VN, trong dịp này, và liên tục cho đến ngày đánh dấu tròn một năm vụ việc Tam Sa?
14-11-2008